Warning: Use of undefined constant choose_countries - assumed 'choose_countries' (this will throw an Error in a future version of PHP) in /home/hmn2ujt5sox9/trademarks.vn/wp-content/themes/flatsome-child/template-parts/posts/layout.php on line 11

Lịch sử hình thành và phát triển luật Nhãn Hiệu

Sự ra đời của việc bảo hộ nhãn hiệu trên thế giới bắt nguồn từ việc chống lại các hành vi làm hàng giả, làm nhái nhãn hiệu của các nhà sản xuất danh tiếng

Có thể bạn quan tâm

Vì vậy, sự ra đời của nó nhằm bảo hộ lợi ích của các nhà sản xuất, kinh doanh trước các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Vấn đề bảo hộ NHHH được ghi nhận lần đầu tiên trong Luật về xí nghiệp, cơ sở chế tạo và lò xưởng thủ công năm 1809 của Pháp. Luật này quy định hành vi làm giả NHHH bị xử phạt như tội tự ý làm giả các văn bản giấy tờ. Ngày 23/6/1857, Pháp ban hành Luật về ký hiệu, NH chế tạo. Theo luật này, quyền đối với NHHH thuộc về người thực hiện sớm nhất một trong hai việc: sử dụng NH và đăng ký NH theo quy định của luật. Nếu một người đăng ký một NH nhưng thời điểm sử dụng NHHH của người đó lại sau người đăng ký thứ hai thì quyền đối với NH thuộc về người thứ hai. Tiếp theo Pháp, lần lượt các nước Italia (ngày30/8/1868), Bỉ (ngày 01/4/1879), Hoa Kỳ (ngày 03/03/1881), Anh (ngày 25/8/1883), Đức (ngày 12/3/1894), Nga (ngày 26/02/1896), Nhật Bản (1875), v.v… đã lần lượt ban hành pháp luật về NHHH của mình. Các đạo luật trên đều quy định khá chi tiết về cơ chế bảo hộ đối với NHHH: thủ tục xác lập quyền, sử dụng và bảo vệ NHHH; phạm vi các dấu hiệu có thể được bảo hộ, tập trung hoá quá trình đăng ký NHHH… Từ đó có thể thấy rằng, ngay từ những bước đi đầu tiên trong quá trình hình thành các văn bản pháp luật bảo hộ NHHH, các quốc gia đã thiết lập được một loạt nguyên tắc cơ bản về bảo hộ loại đối tượng này. Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, hầu hết các nước đã thông qua những đạo luật mới về bảo hộ NHHH, đáp ứng yêu cầu phát triển không ngừng của hoạt động sản xuất và cung ứng hàng hóa/dịch vụ trong thời đại mới.

Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuận cuối thế kỷ XIX đã làm thay đổi căn bản nền sản xuất của xã hội-chuyển sang nền văn minh công nghiệp, theo đó, vai trò của nhãn hiệu đối với cuộc sống con người ngày càng được khẳng định. Trong giai đoạn này, nhiều nước đã ban hành luật nhãn hiệu như Đức, Nhật…Việc trao đổi sản phẩm qua biên giới quốc gia đã tạo nên một làn song toàn cầu hóa tới các cường quốc công nghiệp. Cùng với sự phát triển của thương mại hàng hóa xuyên quốc gia thì tình trạng làm hàng giả, hàng nhái cũng gia tăng. Đây là một điều cản trở lớn cho quá trình giao lưu thương mại. Chính vì vậy, một nhu cầu tất yếu xảy ra đó là cần có sự bảo hộ về quyền SHTT nói chung và quyền SHCN nói riêng theo phương diện quốc tế. Kết quả là các điều ước quốc tế liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu đã lần lượt ra đời.

Văn bản đầu tiên là Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp được ký kết ngày 20/3/1883 tại Paris, được xem xét lại và sửa đổi tại Roma năm 1886, tại Mađrit năm 1890, tại Brussels năm 1897 và 1900, tại Washington năm 1911, tại La Hay năm 1925, tại Luân Đôn năm 1934, tại Lisbon năm 1958, tại Stockholm năm 1967 và được sửa đổi vào năm 1979. Tính đến ngày 15/01/2002, có 162 nước là thành viên của Công ước này Việc bảo hộ nhãn hiệu theo công ước Paris được thực hiện dựa trên hai khía cạnh: Một là, thiết lập những nguyên tắc bảo hộ chung cho tất cả các đối tượng SHCN được quy định trong công ước trong đó có nhãn hiệu. Hai là những quy định riêng về chế độ bảo hộ đối với nhãn hiệu.Sự ra đời của Công ước Paris đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển của pháp luật về bảo hộ các đối tượng SHCN.Tuy nhiên công ước Paris cũng bộc lộ một số thiếu sót nhất định như chưa thiết lập về hệ thống đăng kí quốc tế cũng như chưa có các hình phạt đối với các nước thành viên không bảo hộ tối thiểu quyền SHTT.  Nhằm khoả lấp một phần những khoảng trống trong Công ước Paris liên quan đến NHHH, năm 1891, Thỏa ước Mađrit đã được thông qua tại Tây Ban Nha. Tính đến ngày 18/01/2002, Thỏa ước đã thu hút được 52 quốc gia thành viên. Những quy định của Thỏa ước mở ra cơ hội cho việc thiết lập cơ chế đăng ký quốc gia và quốc tế cho cùng một NH, trong đó mỗi nước thành viên Thỏa ước đều có nghĩa vụ công nhận đăng ký này. Thỏa ước không thiết lập một chế độ bảo hộ duy nhất đối với NHHH ở tất cả các nước thành viên tham gia mà chỉ làm đơn giản hơn quá trình đăng ký bảo hộ đồng thời ở nhiều quốc gia, tạo điều kiện cho người nộp đơn có thể xin đăng ký bảo hộ NHHH của mình ở nhiều quốc gia mà không phải đăng ký trực tiếp ở từng quốc gia đó. Chính điều này sẽ dẫn tới việc giảm thiểu đáng kể những chi phí đăng ký cho người nộp đơn.

Cho đến thời điểm hiện tại, Thỏa ước Mađrit vẫn là điều ước quốc tế quan trọng nhằm khắc phục nguyên tắc lãnh thổ trong bảo hộ NHHH tại các quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, Thỏa ước vẫn còn có những điểm bất cập:

Thứ nhất, đó là tình trạng về quá trình đăng ký hai giai đoạn: đầu tiên là ở cấp độ quốc gia, sau đó là ở cấp độ quốc tế. Điều này sẽ tạo ra những bất lợi nhất định cho người nộp đơn tại nước nơi mà thủ tục xét nghiệm về NH được tiến hành cẩn trọng, khắt khe hơn hoặc nơi mà việc sử dụng NH được coi là điều kiện bắt buộc để NH có thể được đăng ký.

Thứ hai, quy định về thời hạn từ chối đăng ký NH của quốc gia thành viên trong vòng 12 tháng làm cho thời gian xét nghiệm NH một cách nghiêm túc trở nên quá ngắn, nhất là trong điều kiện số lượng lớn đơn nộp yêu cầu bảo hộ.

Thứ ba, mức lệ phí tương đối thấp cho việc đăng ký NH ở các cơ quan có thẩm quyền tại các quốc gia không thể chi trả hết được những chi phí cho việc tiến hành xét nghiệm NH một cách nghiêm túc.

Thứ tư, sự phụ thuộc của hiệu lực đăng ký quốc tế vào hiệu lực đăng ký cơ sở (cho dù chỉ là trong vòng 5 năm đầu tiên) không đáp ứng được lợi ích của người nộp đơn ở các quốc gia nơi mà NH thường hay bị đình chỉ, huỷ bỏ vì nhiều lý do khác nhau.

Xuất phát từ những lý do kể trên nên mặc dù Thỏa ước Mađrit ra đời từ hơn một trăm năm nay và đã qua nhiều lần sửa đổi song vẫn vắng bóng sự tham gia của một số cường quốc về NHHH, trong đó có Hoa Kỳ, Nhật Bản và Anh.

Với mục đích nhằm mở rộng hệ thống đăng ký, thu hút nhiều nước tham gia hơn nữa, năm 1995, Nghị định thư Mađrit đã ra đời. So với Thỏa ước Mađrit, Nghị định thư đã có một số cải cách cơ bản như: Việc đăng ký quốc tế không chỉ dựa trên cơ sở đăng ký quốc gia mà còn có thể dựa trên đơn đăng ký quốc gia; Thời hạn từ chối đăng ký cho mỗi quốc gia là 18 tháng thay vì 1 năm như trước đây; Mức lệ phí được tăng lên và các quốc gia được phép thu lệ phí riêng cho việc đăng ký; Một đăng ký quốc tế bị huỷ bỏ có thể chuyển thành một đăng ký quốc gia ở mỗi quốc gia được chỉ định.

Tính đến ngày 18/01/2002 đã có 55 quốc gia là thành viên của Nghị định thư Mađrit Việt Nam đã gia nhập Điều ước quốc tế này từ ngày 11/7/2006. Trong số các cường quốc về bảo hộ NHHH, Hoa Kỳ vẫn là nước tiếp tục không tham gia Nghị định thư. Bởi vì, về cơ bản, Hoa Kỳ tuy chấp nhận những điều kiện của Nghị định thư, nhưng lại không đồng ý với cơ chế bỏ phiếu của Nghị định thư (chấp nhận cả các lá phiếu độc lập của từng nước Châu Âu lẫn lá phiếu của Liên minh EC). Hoa Kỳ cho rằng, một nguyên tắc cần được tôn trọng khi tham gia bất kỳ thoả thuận quốc tế nào là các thành viên phải có quyền bầu cử như nhau.

Các thủ tục đăng ký NHHH ở mỗi nước được quy định là tương đối khác nhau. Những thủ tục này đôi khi đòi hỏi các thể thức rất khác nhau, gây ít nhiều khó khăn cho người nộp đơn và chủ sở hữu NHHH. Một thành công đáng kể trong việc tiến tới hài hoà hoá, đơn giản hoá các thể thức đó là việc thông qua Hiệp ước luật NHHH ngày 27 tháng 10 năm 1994.

Các quy định của Hiệp ước đưa ra những tiêu chuẩn tối đa về thủ tục mà cơ quan có thẩm quyền đăng ký NHHH được phép hay không được phép đòi hỏi người nộp đơn hoặc chủ sở hữu NHHH. Hiệp ước loại bỏ một số yêu cầu được coi là gánh nặng (như việc hợp pháp hoá chữ ký); đề ra một số điểm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành các thủ tục; v.v…

Nhìn chung, Hiệp ước luật NHHH mang lại lợi ích không chỉ cho người nộp đơn, chủ sở hữu NHHH mà còn cho cả cơ quan đăng ký của các quốc gia và các đại diện SHTT.

Tính đến tháng 10/ 2004, tức là chỉ sau 10 năm ra đời, Hiệp ước đã được 27 nước phê chuẩn, trong đó có Hoa Kỳ. Với Việt Nam, mặc dù chúng ta chưa tham gia Hiệp ước song hệ thống pháp luật của nước ta có hầu hết các quy định trong hiệp ước. Tuy nhiên có một số điều bị cấm và thiếu một số quy định bắt buộc.

Cũng trong năm 1994, một điều ước quốc tế vô cùng quan trọng đã được thông qua mà sự xuất hiện của nó đã mang lại những thay đổi cơ bản trong lĩnh vực SHTT (trong đó có NHHH). Đó chính là Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT (TRIPS).

Hiệp định TRIPS quy định việc bảo hộ nhiều đối tượng SHTT khác nhau, trong đó có NHHH. Hiệp định TRIPS đã khẳng định lại và mở rộng các chuẩn mực và quy định của Công ước Paris. Hơn nữa, Hiệp định TRIPS đã vượt ra ngoài Công ước Paris khi lần đầu tiên đưa ra một nguyên tắc mới là đối xử tối huệ quốc (MNF), đồng thời quy định các biện pháp thực thi quyền SHTT khá chặt chẽ và hệ thống hình phạt đối với các thành viên không đảm bảo sự bảo hộ tối thiểu về quyền SHTT, kể cả các tiêu chuẩn tối thiểu về nghĩa vụ thực thi quyền. Các hình phạt này hoàn toàn không có trong Công ước Paris.

Cũng với mục đích tăng cường bảo hộ các đối tượng của quyền SHTT trong đó có NHHH trên quy mô toàn thế giới, năm 1970, Tổ chức SHTT thế giới (WIPO) đã được thành lập và chính thức đi vào hoạt động.

Rate this post

Rate this post

Liên hệ Luật sư Sở hữu trí tuệ để được đăng ký nhãn hiệu

    Leave a Reply

    Your email address will not be published. Required fields are marked *